Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Điều trị bệnh chàm thể tạng

Chàm thể tạng (còn gọi là lác sữa) là một bệnh viêm da rất hay gặp ở trẻ em. Trẻ mắc bệnh này cần kiêng bú sữa bò và ăn trứng vì những thực phẩm đó làm bệnh nặng thêm.

Theo các bác sĩ da liễu, không nên cho trẻ bị chàm thể tạng nhập viện vì môi trường bệnh viện dễ làm cho bé bị nhiễm trùng.


>> Bệnh chàm và những điều cần biết

Bệnh có khuynh hướng xuất hiện nhiều trong những gia đình có người mắc phải các vấn đề về thể tạng như sốt theo mùa, hen hay viêm mũi dị ứng.

Đây là một hiện tượng viêm bì - thượng bì, nguyên nhân rất phức tạp. Biểu hiện lâm sàng điển hình là những mảng hồng ban có mụn nước, ngứa. Bệnh kéo dài. Người bị bệnh thường có phản ứng với một số chất gặp hằng ngày như bụi nhà, phấn hoa và thức ăn (sữa, trứng, đồ biển...).

Các triệu chứng bệnh thường bắt đầu xuất hiện khi trẻ 3-6 tháng tuổi, với mảng hồng ban ở mặt (không có quanh miệng, mắt). Những mảng này tiến triển thành mụn nước, rịn nước và rất dễ bị nhiễm trùng thứ cấp. Bệnh nhân ngứa dữ dội, gãi ngay cả lúc ngủ. Trong giai đoạn này, cha mẹ nên dùng những dung dịch đắp ướt lên vùng tổn thương. Tắm nước ấm sẽ làm cho bệnh nhân đỡ ngứa.

Khi các mảng này tróc vẩy, những đường nứt mờ không rõ, bệnh nhân cảm thấy ngứa vừa phải, đau như bị châm chích và có cảm giác bỏng. Lúc này, cần dùng các loại kem bôi lên vùng tổn thương đó.

Ở giai đoạn tiếp theo, các vùng tổn thương trở thành những mảng da dày, tăng sừng, có vết trầy xước. Mức độ ngứa từ vừa phải đến không chịu được. Bệnh nhân càng gãi, da càng dày. Để điều trị, cần dùng những loại mỡ tan sừng và cho bệnh nhân thuốc uống chống ngứa.

Trong giai đoạn này, không nên cho bệnh nhân tắm quá lâu để tránh làm khô da; cắt ngắn móng tay để trẻ khỏi gãi. Ngoài ra, có thể sử dụng các chất làm ẩm da, mặc cho trẻ quần áo nhẹ làm bằng sợi bông. Tránh các chất và vật dụng có thể gây dị ứng.

Chú ý:

- Nhớ dùng thuốc trong các đợt bệnh bộc phát. Điều quan trọng trong bệnh chàm là cắt đứt cái vòng luẩn quẩn: ngứa rồi gãi, càng gãi càng ngứa.

- Nếu bị nhiễm trùng thứ cấp, có thể dùng Ampicilline, Amoclavic. Ngoài ra, có thể dùng các vitamin A, B1, B2, B6, B12, PP, C, E; Fulseed, Cystine B6, Hyposulfene.

- Thuốc chống ngứa bao gồm: Pheramine 4 mg, Fastcet 10 mg hay Clarityl 10 mg. Tuy nhiên, người bệnh cần đến bác sĩ chuyên khoa để có chỉ định cụ thể.

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Chữa bệnh chàm bằng Đông y

Bệnh chàm (eczema) là rất khó chữa. Việc kết hợp một số loại thuốc y học cổ truyền có thể hạn chế phần nào căn bệnh gây ngứa dai dẳng này, chẳng hạn như ngải cứu, kinh giới, kim ngân hoa, phèn xanh...

>> Thuốc chữa bệnh chàm

Chàm là một loại tổn thương mãn tính ngoài da, có tính dai dẳng. Đặc điểm của bệnh là có mụn nước, rất ngứa và thường thì vùng da bệnh bị sừng hóa dày lên.

Việc dùng thuốc y học dân tộc (thuốc uống tiêu độc, nâng thể trạng và thuốc ngâm rửa, bôi ngoài chống nhiễm trùng, làm lành vết thương) kết hợp chiếu đèn hồng ngoại cho hiệu quả khá tốt. Tùy theo bệnh nặng nhẹ mà có thời gian điều trị thích hợp, thường trong khoảng 1-3 tháng.

Thuốc uống giải độc, tiêu viêm, nâng thể trạng: Củ kim cang, huỳnh kỳ, sâm đại hành, đẳng sâm mỗi thứ 15 g; thổ phục linh, kim ngân hoa, vỏ núc nác (hay hoàng bá), phòng phong, bồ công anh mỗi thứ 10 g. Nước nhất đổ 600 ml, sắc còn 200 ml. Nước nhì cũng vậy.

Nếu bị tiêu chảy gia thêm 1 củ gừng (xắt lát) vào thang thuốc. Uống liên tục đến khi vết chàm khô, hết ngứa và không còn tái phát nữa. Bệnh nặng có thể dùng 30-50 thang, chia làm nhiều đợt. Mỗi đợt khoảng 1 tuần lễ.

Thuốc ngâm, rửa vết chàm:

Ngải cứu 50 g, xà sàng tử 20 g, kinh giới 10 g, vỏ núc nác 50 g, phèn xanh 5 g. Cho các vị trên vào 3-4 lít nước, nấu sôi để nguội, ngâm vùng bị chàm chừng 10 phút, ngày ngâm vài lần. Mỗi đợt chừng 5-7 ngày. Liên tục đến khi vết chàm không còn tái phát. Có thể dùng thang thuốc trên đem ngâm 1 lít rượu 30 độ, dùng để thoa trên các vết chàm.

Rọi đèn hồng ngoại:

Dùng đèn hồng ngoại rọi trên vùng da bị vết chàm hằng ngày, mỗi lần chừng 10-15 phút. Bệnh chàm thường tái phát vài lần, nên việc điều trị phải kiên nhẫn.

Bệnh nhân chàm da cần hạn chế ăn thức ăn cay nóng, nhiều chất kích thích như: Rượu, cà phê, ớt, tiêu, tôm, cua. Không nên thoa các loại thuốc mỡ có salicylic, corticoid, flucinar… vì khi mới dùng, các loại thuốc trên sẽ làm hết ngứa ngay, nhưng càng lâu thì bệnh sẽ phát nặng hơn.

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Điều trị khi bị chàm

Ăn thức ăn lỏng nhẹ, kiêng muối trong đợt cấp, tránh dùng rượu chè, cà phê, thuốc lá, tôm cua, đồ hộp, thức ăn sống.

Nguyên tắc điều trị

- Tích cực tìm phản ứng nguyên để tránh.

- Kết hợp dùng thuốc uống với thuốc bôi ngoài da.

- Chú ý chế độ ăn : Ăn thức ăn lỏng nhẹ, kiêng muối trong đợt cấp, tránh dùng rượu chè, cà phê, thuốc lá, tôm cua, đồ hộp, thức ăn sống.

- Nghỉ ngơi tuyệt đối trong đợt cấp, làm những việc thích hợp.

- Tránh dùng các loại thuốc mạnh, trước khi điều trị cần thăm dò phản ứng của bệnh nhân.

- Giải thích cho bệnh nhân không cọ, gãi, sát xà phòng, chích lể, hoặc bôi đắp lung tung.

Thuốc bôi toàn thân

Tùy theo từng giai đoạn của bệnh mà điều trị các thuốc bôi ngoài da cho phù hợp.

Thuốc bôi

- Giai đoạn cấp : Tẩm liệu tại chỗ bằng nước muối sinh lý, thuốc tím 1% Jarish, nước ép hoa quả (dưa gang, bí đao, rau má, lá khế) sau đó ta dùng một trong các loại dung dịch màu để chống nhiễm khuẩn và giảm xuất tiết : Eosin, Milian, Nitrat bạc 0,25% -2%.

- Giai đoạn bán cấp : Dùng dạng kem như kem Corticoide, kem kháng sinh, hồ Brocq, dầu kẽm...

- Giai đoạn mạn : mỡ corticoide, mỡ salycylé, hắc ín, ichtyol.

Thuốc toàn thân

Những thuốc có tác dụng an thần, chống ngứa.

- Kháng Histamin: peritol, dimedrol, chlopheniramin, trexyl, allerry, astelong, histalong, hismanal.

- An thần : diazepam, seduxen.

Thuốc giải mẫn cảm

Vitamin C liều cao 1 đến 2gam/ ngày.

Vitamin liệu phòng : D 2, A, B2, B6, P, PP, F.

Khi hậu liệu pháp : Nghỉ ở vùng có nước suối khoáng hoặc ven biển.

Thuốc đông y

Corticoit có tác dụng nhanh nhưng dễ tái phát trở lại : nên chỉ dùng thuốc ở giai đoạn bán cấp và không nên kéo dài, dùng trong đợt : Viêm da tiếp xúc cấp điều trị ngắn ngày.

Giai đoạn cấp nên dùng kháng sinh để phòng bội nhiễm.

Bệnh chàm đầu chi

Chàm đầu chi là loại bệnh ngoài da phổ biến và là bệnh thường gặp ở những vùng khí hậu nhiệt đới.

Biểu hiện

Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng nhưng thường có đặc điểm chung như: ngứa ngáy, khó chịu; mụn nước thành từng mảng, giới hạn không rõ, tiến triển thành từng đợt, dai dẳng và hay tái phát.

Bệnh thường tiến triển theo từng giai đoạn. Lúc đầu, mụn nước mọc rải rác hoặc tập trung ở rìa các ngón chân, tay hoặc kẽ chân với kích thước nhỏ như đầu đinh ghim, đôi khi to rõ như bọng nước, gây ngứa ngáy trên da.

Mỗi đợt có thể kéo dài từ một vài ngày đến một vài tuần. Mụn nước có thể vỡ đi do bệnh nhân gãi hoặc vỡ tự nhiên. Đến giai đoạn này, mảng chàm lỗ chỗ nhiều vết trợt hình tròn còn gọi là giếng chàm (giai đoạn này dễ bị bội nhiễm). Huyết thanh chảy ra ngoài, nếu lấy bông hay giấy đắp lên thì huyết thanh sẽ tạo thành một mảng dày.

Dần dần, sự xuất tiết giảm, vảy tiết khô đọng rồi bong ra để lộ lớp da nhẵn bóng mỏng. Lớp da vừa tái tạo, tự rạn nứt, bong thành mảng dày hoặc vụn như cám, hoặc da dày lên, tăng sắc tố, có kẻ ô gọi là liken hóa.

Sau một thời gian khá lâu nếu không có mụn nước tái phát da sẽ trở lại bình thường không có sẹo, bởi vì tổn thương chỉ nằm ở lớp thượng bì.

Xử lý thế nào?

Khi mắc bệnh này, người bệnh cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được chỉ định dùng thuốc bôi, uống.

Không nên tự mua thuốc về bôi vì có thể làm bệnh nặng thêm.

Bên cạnh đó, người bệnh nên tránh các loại chất tẩy rửa như xà phòng, nước rửa bát... Người bệnh cũng tránh những loại giày dép có màu và cứng gây chà sát lên vùng da bị chàm.

Không được tự ý bóc da hay kỳ cọ vì sẽ dễ gây bội nhiễm. Bạn nên kiên trì điều trị theo chỉ dẫn của bác sĩ.

Thuốc chữa bệnh chàm

Với bệnh chàm và nhiều bệnh khác, việc chọn không đúng thuốc và dùng không đúng cách sẽ làm bệnh nặng thêm hoặc chí ít là không khỏi được. Có thể chia thuốc chữa chàm thành hai loại: thuốc dùng ngoài và dùng trong.

>> Chàm thể tạng ở trẻ em

1. Các thuốc dùng ngoài:

- Hồ nước: Dùng trong giai đoạn đầu, da mới đỏ, chảy nước ít, có tác dụng làm dịu da, đỡ ngứa. Sau 1-2 ngày, thay dạng thuốc khác.

- Dung dịch: Thường dùng dung dịch Jarish, natri clorid 0,9%; thuốc tím 0,001%; vioform 1%. Dùng trong giai đoạn chàm bán cấp. Dùng gạc nhúng vào dung dịch, đắp nhiều lần lên nơi thương tổn. Không được dùng các dung dịch có axit boric cho trẻ em.

- Thuốc mỡ: Chỉ dùng trong giai đoạn chàm mạn tính. Việc dùng thuốc mỡ trong giai đoạn cấp tính sẽ gây phản ứng mạnh.

Đối với thuốc bôi corticoid (có tác dụng chống viêm, ngứa), nên dùng dạng nhũ dịch có nước khi tổn thương không chảy nước hay giai đoạn bán cấp; dùng dạng mỡ ở giai đoạn mạn tính (da khô ráp, da dày có vảy). Trường hợp mạn tính phải dùng khá lâu dài (có thể từ 12-15 tuần). Nếu dùng lâu dài, corticoid có thể gây tai biến ở da.

2. Các thuốc dùng trong:

- Thuốc chống ngứa: Uống dung dịch natri bromid 2-3%, tiêm dung dịch novocain 1% dưới da, tĩnh mạch. Đơn giản hơn, nên dùng các thuốc kháng histamin. Có thể dùng cả thuốc an thần gây ngủ để chống ngứa về đêm.

- Thuốc chống bội nhiễm: Tùy theo tình trạng bội nhiễm, bác sĩ sẽ chọn lựa kháng sinh thích hợp.

Tóm lại, việc dùng thuốc cho bệnh chàm rất phức tạp. Bạn nên đi bác sĩ chuyên khoa da liễu khám kỹ một lần nữa để có đơn thuốc thích hợp. Nếu đúng là bạn mắc bệnh chàm, việc điều trị sẽ kéo dài, cần kiên trì chữa bệnh theo hướng dẫn của thầy thuốc.

Chàm thể tạng ở trẻ em

Trẻ em bú sữa bò, ăn trứng làm bệnh chàm thể trạng nặng thêm.

>> Bệnh chàm có những thể nào ?

Chàm thể tạng là một loại bệnh viêm da thường gặp nhất. Bệnh có khuynh hướng xuất hiện trong những gia đình có người mắc phải các tình trạng được gọi là vấn đề thể tạng như sốt theo mùa, viêm mũi dị ứng hay suyễn.

Chàm thể tạng là một hiện tượng viêm bì - thượng bì, nguyên nhân rất phức tạp. Biểu hiện lâm sàng là những mảng hồng ban có mụn nước ngứa, bệnh kéo dài. Người bị bệnh thường có phản ứng với một số chất thường gặp hàng ngày như bụi nhà, phấn hoa và thức ăn (sữa, trứng, đồ biển...)

Chàm thể tạng ở trẻ em bắt đầu từ 3 - 6 tháng tuổi thường được gọi là lác sữa biểu hiện đầu tiên ở mặt. Không có quanh miệng, mắt. Bắt đầu mảng hồng ban tiến triển mụn nước, rỉ nước, vẩy tiết. Các mảng chàm có ranh giới không rõ, rất dễ bị nhiễm trùng thứ cấp. Bú sữa bò, ăn trứng làm bệnh nặng thêm. Các chuyên gia về bệnh ngoài da khuyên các cháu bị lác sữa không nên cho nhập viện vì môi trường bệnh viện dễ làm cho bé bị nhiễm trùng.

Sang thương của chàm thể tạng là một mảng hồng bang và mụn nước rịn nước. Bệnh nhân ngứa dữ dội, gãi ngay cả lúc ngủ. Điều trị giai đoạn này, ta nên dùng những dung dịch đắp ướt lên sang thương. Tắm nước ấm làm cho bệnh nhân đỡ ngứa.

Sang thương hồng, tróc vẩy, có những đường nứt mờ không rõ, bệnh nhân ngứa vừa phải, đau, châm chích và có cảm giác bỏng. Điều trị giai đoạn này, ta dùng những loại kem thoa lên sang thương. Sang thương là những mảng da dầy, tăng sừng, có vết trầy xước. Bệnh nhân ngứa vừa đến ngứa không chịu được. Nhưng bệnh nhân càng gãi da càng dày.

Điều trị giai đoạn này, ta dùng những loại mỡ tan sừng và cho bệnh nhân thuốc uống chống ngứa.

Nước làm khô da do đó không nên tắm quá lâu, không nên gãi, móng tay cắt ngắn. Bạn có thể sử dụng các chất làm ẩm da. Sử dụng quần áo nhẹ và bằng sợi bông. Tránh các chất và vật dụng làm da bạn nhạy cảm.

Nhớ dùng thuốc trong các đợt bệnh bộc phát. Điều quan trọng trong bệnh chàm là cắt đứt cái vòng lẩn quẩn: ngứa rồi gãi, thể tạng càng gãi càng ngứa.

Bị nhiễm trùng trong giai đoạn cấp có thể dùng Ampicilline, Amoclavic 2 gam mỗi ngày cho người lớn. Ngoài ra chúng ta có thể dùng Vitamin A, B1, B2, B6, B12, vitamin PP, vitamin C, vitamin E, Fulseed, Cystine B6, Hyposulfene.

Chống ngứa: Pheramine 4mg, Fastcet 10mg hay Clarityl 10mg. Tuy nhiên, người bệnh cần đến bác sĩ chuyên khoa để có chỉ định cụ thể.

Bệnh chàm và những điều cần biết

Chàm là một bệnh da dị ứng, xuất hiện do phản ứng viêm của biểu bì ở những người có cơ địa nhạy cảm. Bệnh hay gặp ở trẻ 2-4 tháng tuổi, có thể mang tính chất gia đình.

>> Bệnh Chàm là gì ?

Bệnh chàm thường diễn biến qua 3 giai đoạn chính:

Giai đoạn cấp tính: Triệu chứng chính là các mụn nước chi chít tập trung trên một nền da đỏ, phù nề do bị viêm, ngứa nhiều vùng tổn thương. Sau đó các mụn nước này vỡ ra và chảy nước có màu vàng.

Giai đoạn bán cấp: Hiện tượng chảy nước vàng giảm dần, da bắt đầu hết phù, bớt đỏ.

Giai đoạn mạn tính: Các giai đoạn cấp và bán cấp kéo dài khoảng vài tháng. Nếu không được điều trị đúng thuốc, bệnh không khỏi sẽ trở thành mạn tính. Triệu chứng ngứa tăng lên, vì vậy bệnh nhân gãi nhiều làm cho da bị viêm, dày cộm, nếp da sâu xuống gọi là "giếng chàm". Các giếng chàm gây ngứa rất nhiều, nhất là ở trẻ em, làm cho các cháu quấy khóc nhiều về đêm. Nhiều bệnh nhân gãi đến mức gây chảy máu.

Các thể lâm sàng


Chàm thể tạng: Bao gồm 2 loại chính.

Chàm thể tạng ở trẻ em: Thường gặp ở trẻ đang bú mẹ, có thể gặp ngay những tháng đầu mới sinh, cũng có thể 2 hay 3 tháng tuổi. Tổn thương thường xuất hiện ở hai má, cằm, trán, mũi. Mụn nước sắp xếp thành từng đám, ranh giới không rõ ràng.

Chàm thể tạng ở người lớn: Bệnh có thể xuất hiện từ lúc nhỏ và dai dẳng đến tuổi trưởng thành; hoặc xuất hiện ở người trưởng thành trước đó chưa bị chàm lần nào. Vị trí hay gặp là mặt, lan ra cổ, thân mình, chân tay, các nếp gấp như vùng khoeo chân. Bệnh nhân có mụn nước, ngứa.

Chàm nhiễm khuẩn: Loại này có thể xuất hiện xung quanh các vết thương, vết bỏng, vết loét do giãn tĩnh mạch bị nhiễm khuẩn. Các vết chàm này hình dạng có bờ rõ, trên bề mặt của chúng có vảy tiết, dưới chúng là lớp da đỏ ướt và kèm theo những mụn nước tiết dịch.

Chàm da mỡ: Thường gặp ở người có da tăng tiết mỡ (tăng tiết chất bã), thường gặp ở vùng trước ngực, sau lưng, nhất là vùng ranh giới giữa hai xương bả vai, da đầu...

Chàm tiếp xúc: Do tiếp xúc với dị nguyên, hay gặp nhất trong một số nghề nghiệp như dệt len, thuộc da, công nghệ nhựa... Bệnh ở những người làm nghề trên gọi là bệnh nghề nghiệp. Loại chàm này còn gặp ở một số người bị dị ứng với chất cao su (đi dép cao su, dây rút quần bằng chất liệu cao su), da (dây đeo đồng hồ), nhựa (đi dép nhựa)...

Những trường hợp nghi chàm cần được khám kỹ và khi có điều kiện, nên xác định nguyên nhân gây chàm (dị nguyên) để việc điều trị thuận lợi hơn. Trong những trường hợp bị chàm tiếp xúc, cần loại bỏ chất gây nên bệnh chàm, ví dụ bị chàm do dây chun quần thì có thể thay bằng dây vải... Những trường hợp bị chàm nghề nghiệp nếu thay đổi được nghề thì nên thay đổi, hoặc chuyển làm các công việc không tiếp xúc trực tiếp với chất gây bệnh.

Nguyên tắc điều trị tại chỗ là dùng thuốc chống viêm, thuốc hút dịch và làm giảm ngứa cho bệnh nhân. Trong trường hợp chàm nhiễm khuẩn, nên cho thêm kháng sinh bôi tại chỗ. Đối với trẻ bị chàm nặng, nên cân nhắc trong việc cho thuốc an thần, kháng histamin (ví dụ sirô phenergan) để hạn chế ngứa gây khó chịu cho bệnh nhân.

Phòng chống bệnh chàm như thế nào

Thăm khám hỏi kỹ về tiền sử bệnh để tìm nguyên nhân, điều trị nguyên nhân là vấn đề lý tưởng của bệnh chàm, chẩn đoán đúng cũng là một phương pháp điều trị tích cực và điều trị đúng theo từng giai đoạn của bệnh.

1. Phòng bệnh cấp 0: là biện pháp nhằm loại trừ yếu tố nguy cơ hoặc không cho yếu tố nguy cơ xuất hiện, bao gồm các biện pháp tổ chức xã hội. Như tổ chức khám và phát hiện bệnh, phát hiện nguyên nhân bệnh để ngăn chặn sự xuất hiện của bệnh. Giải quyết vấn đề môi trường, như các bệnh nghề nghiệp, chất xúc tác liên quan đến cơ địa của những người có cơ địa dị ứng.

2. Phòng bệnh cấp 1: là áp dụng các biện pháp phòng bệnh cho người khỏe khỏi mắc bệnh, phòng bệnh tích cực cho bệnh nhân khi chưa bị bệnh: phải có một cơ thể khỏe mạnh, dinh dưỡng tốt, kiêng những thức ăn đồ dùng kích thích: rượu chè, cà phê, thuốc lá, thức ăn sống. Không tiếp xúc với những chất dể gây dị ứng.

3. Phòng bệnh cấp 2 : Tăng cường phát hiện bệnh và giải quyết sớm các bệnh tật, điều trị bệnh đúng và có hiệu quả, hạn chế chuyển sang thể nặng, tàn phế.

Thăm khám hỏi kỹ về tiền sử bệnh để tìm nguyên nhân, điều trị nguyên nhân là vấn đề lý tưởng của bệnh chàm, chẩn đoán đúng cũng là một phương pháp điều trị tích cực và điều trị đúng theo từng giai đoạn của bệnh.

Tránh dùng các loại thuốc nặng, trước khi điều trị cần thăm dò phản ứng da của bệnh nhân. Giải thích cho bệnh nhân hiểu và hướng dẫn bệnh nhân phối hợp với thầy thuốc, phòng bệnh tích cực ngay cả khi đang điều trị, điều trị tốt cũng là một biện pháp phòng bệnh, giải thích cho bệnh nhân chế độ nghỉ ngơi ăn uống, những điều cần tránh khi đang bị bệnh và ngay cả khi lành bệnh.

4. Phòng bệnh cấp 3: Là việc áp dụng các biện pháp làm giảm và hạn chế tàn phế và phục hồi chức năng.

Bệnh chàm có những thể nào ?

Chàm thể tạng

Chàm thể tạng là thể thường gặp nhất và có liên hệ chặt chẽ với hen và sốt cỏ khô. Bệnh có thể gặp ở cả trẻ em và người lớn, thường có tính chất gia đình. Triệu chứng thường gặp nhất là ngứa, có thể không chịu nổi. Các triệu chứng khác gồm có khô da toàn thân, đỏ và viêm. Gãi liên tục có thể làm cho da trầy sước gây nhiễm trùng.

Chàm bội nhiễm có triệu chứng nứt da và rỉ dịch. Điều trị bao gồm thuốc làm mềm da để duy trì độ ẩm và steroids để giảm viêm.

Viêm da tiếp xúc dị ứng

Bệnh xảy ra do hệ thống miễn dịch của cơ thể phản ứng khi da tiếp xúc với một chất nào đó. Ví dụ, phản ứng dị ứng có thể xảy ra với nickel, đây là một kim loại thường gặp ở bông tai, khóa thắt lưng và nút quần jeans. Các phản ứng cũng có thể xảy ra sau khi tiếp xúc với một số chất khác như nước hoa và cao su. Để phòng ngừa những phản ứng lặp lại, cách tốt nhất là tránh tiếp xúc với bất kỳ thứ gì mà bạn biết sẽ gây ra một vết dị ứng.

Viêm da tiếp xúc kích ứng

Thể bệnh này gây ra do tiếp xúc thường xuyên với các chất trong cuộc sống hàng ngày như chất tẩy rửa và hóa chất mà gây kích ứng cho da. Bệnh thường xảy ra ở bàn tay, có thể ngăn ngừa bằng cách tránh các chất gây kích ứng và giữ ẩm cho da.

Chàm tiết bã trẻ em

Đây là một bệnh thường gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, nguyên nhân chính xác chưa rõ. Bệnh thường bắt đầu ở da đầu hay vùng tã lót và nhanh chóng lan rộng. Mặc dù bệnh trông có vẻ khó coi nhưng không gây đau hay ngứa và không làm cho trẻ khó chịu. Bình thường bệnh sẽ hết trong một vài tháng, nếu dùng một số loại kem và dầu tắm giữ ẩm bệnh sẽ cải thiện nhanh hơn.
Chàm tiết bã người lớn

Gặp ở tuổi 20 đến 40. Bệnh thường có ở da đầu dưới dạng gầu nhẹ, nhưng có thể lan đến mặt, tai và ngực. Da trở nên đỏ, viêm và bắt đầu bong vẩy. Bệnh được cho là do nấm gây ra. Nếu có viêm nhiễm, cần điều trị với một loại kem chống nấm.

Chàm ứ đọng

Bệnh ảnh hưởng chi dưới ở người trung niên hay lớn tuổi, do tuần hoàn tĩnh mạch kém. Vùng da quanh mắt cá thường bị, có những đốm nhỏ, ngứa, viêm. Điều trị với thuốc làm mềm da và kem steroids. Nếu không điều trị, da có thể nứt ra dẫn đến loét.

Chàm dạng đĩa

Thường gặp ở người lớn và xuất hiện đột ngột dưới dạng một vài sang thương da đỏ hình đồng xu, ở thân mình hay cẳng chân. Da trở nên ngứa và rỉ dịch. Bệnh thường điều trị với thuốc làm mềm da (và kem steroids nếu cần).

Bệnh Chàm là gì ?

Chàm là một bệnh da phổ biến, có trên khắp thế giới và là bệnh thường thấy nhất.
Các bệnh da xếp vào nhóm bệnh “chàm” tại hầu hết các quốc gia được dùng để chỉ một phạm trù riêng biệt lớn nhất trong các chẩn đoán bệnh ngoài da.

Khoảng 10% dân số trên thế giới mắc bệnh chàm. Ở Việt Nam bệnh chàm chiếm 25% trong tổng số các bệnh ngoài da và là một trong những lý do hàng đầu khiến bệnh nhân phải đến khám bệnh da liễu.

Chàm là một loại bệnh có sự phối hợp với những biến đổi về mặt địa lý, về chủng tộc và tính mạn của nó. Tỷ lệ tăng ở những quốc gia, ở vùng nhiệt đới. Tại London 18% chàm được tìm thấy trong các đối tượng đến khám bệnh. Một số điều tra về các bệnh da tại phòng khám tổng quát phát hiện 33% và 23% trong tất cả các trường hợp tại Glasgow và Oxford. Chàm chiếm 17% trong tất cả các bệnh tại Hylạp.

Bệnh chàm không gây tử vong, nhưng gây ngứa ngáy, hoặc khô căng da khó chịu, và bệnh thường xuyên tái phát tới lui nhiều lần trong đời, và, như một số căn bệnh da khác, chàm cũng làm ảnh hưởng ít nhiều đến thẩm mỹ.

Chàm là một bệnh da viêm, ngứa, không lây truyền, có thể ở dạng cấp, bán cấp hay mạn tính.

Biểu hiện về lâm sàng rất đa dạng nhưng nói chung bao giờ cũng có đặc tính sau:

- Về lâm sàng : có ngứa, có mụn nước sắp xếp thành từng mảng giới hạn không rõ, tiến triển thành từng đợt, dai dẳng hay tái phát.

- Về giải phẫu bệnh lý : có thương tổn thuộc loại xốp bào.

- Về sinh bệnh học : người ta cho rằng hai yếu tố cơ bản phát sinh ra chàm là cơ địa dị ứng và tác nhân kích thích ở trong hay ngoài vào cơ địa ấy. Cả hai yếu tố đều thay đổi nhiều ít tùy theo từng trường hợp.

Nguyên nhân

Bệnh chàm phát sinh do hai yếu tố : cơ địa và dị ứng nguyên.

1. Cơ địa

- Có thể có tính chất gia đình, di truyền, tiền sử trong gia đình bệnh nhân có thể có người bị chàm, dị ứng, hen suyển. Có nhiều công trình mới đã chứng tỏ cơ địa là những biến đổi sinh vật, chuyển hóa các chất do rối loạn chức năng nội tạng, nội tiết, thần kinh

- Các tác nhân kích thích bên trong, kèm theo có thể bị viêm mũi xoang, xơ gan, viêm dạ dày, viêm đại tràng, viêm tai xương chũm, các bệnh về thận...

- Có thuyết cho rằng do rối loạn thần kinh vận mạch, rối loạn chức năng thận, tiêu hóa nhưng chưa được chứng minh.

2. Dị ứng nguyên

- Các thuốc hay gây phản ứng : lưu huỳnh, thủy ngân, thuốc tê, sunfamid, chlorocid , penicillin, streptomycin.
- Hóa chất gây bệnh do nghề nghiệp : xi măng, thuốc nhuộm, nguyên liệu làm cao su, sơn xe, dầu mỡ, than đá, phân hóa học, thuốc sâu, acit, kiềm,...

- Các sản phẩm vi sinh có cơ chế dị ứng : vi khuẩn, nấm, siêu vi.

- Các yếu tố môi trường sống : khói, bụi, lạnh, nóng, ẩm.

- Yếu tố tâm thần kinh cũng ảnh hưởng lên bệnh này, vì thế với một số người chàm cũng có thể nặng lên sau những chấn thương tâm lý, stress, lo âu căng thẳng.

Phân loại , diễn tiến và điều trị

Có nhiều hình thái, cách thức phân chia bệnh chàm.

Để đơn giản, chúng ta tạm chia làm hai loại chàm: chàm khô và chàm ướt (khi thương tổn là những mụn nước, hoặc đang rỉ dịch, rất ngứa và dễ bội nhiễm).

Những người có biểu hiện chàm khô nứt nẻ, thường xuất hiện ở bàn tay, bàn chân, nặng lên khi trời lạnh, hoặc khi tiếp xúc hóa chất, xà bông, chất tẩy rửa...

Bệnh chàm có thể điều trị dứt điểm không?

Chàm không thể trị dứt hẳn được.

Việc điều trị là nhằm kiểm soát các cơn ngứa, ngăn ngừa, hay trị liệu tình trạng bội nhiễm nếu có, làm giảm các biểu hiện viêm da, làm da mềm mại và loại bỏ các mảng vẩy, các rãnh nứt và làm giảm thiểu sự xuất hiện của những thương tổn mới trên da.

Bệnh có những cơn thuyên giảm với những đợt tái phát cấp tính hay vẫn kéo dài kinh niên, ảnh hưởng không ít đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Một số lời khuyên sau đây mang tính chất ngăn ngừa sự tái phát và trầm trọng của bệnh

- Những người mắc bệnh chàm cần tránh sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, tìm và tránh tối đa những gì có thể là nguyên nhân gây bệnh cho mình như một số thức ăn, thuốc uống, mỹ phẩm, trang sức, xà phòng, hóa chất tẩy rửa, thuốc nhuộm... đồng thời cũng cần biết cách chế ngự stress, và luôn thực hiện theo đơn bác sĩ.

- Bên cạnh đó, ta cần thường xuyên thoa các chất giữ ẩm, làm mềm da và nên chọn các chất không màu, không mùi. Các chất này có thể thoa xen kẽ với các thuốc điều trị được bác sĩ kê đơn và khi bệnh thuyên giảm, vẫn tiếp tục sử dụng thường xuyên mỗi ngày.

+ Với trường hợp chàm ướt, bệnh nhân thường được khuyên dùng thuốc tím pha loãng để ngâm rửa thương tổn, thoa các dung dịch màu như màu xanh Methylene, màu đỏ Eosine, màu tím Gentian...

+ Với những người bị chàm làm nứt nẻ ở bàn chân, gót chân thì việc bảo vệ bàn chân khỏi nguồn không khí lạnh như mang vớ mềm và thoa liên tục các chất giữ ẩm để làm mềm da là rất cần thiết.

- Các loại thuốc uống giúp an thần, giảm ngứa, giải mẫn cảm, kháng sinh hoặc các loại thuốc thoa có chứa chất corticosteroid, chất điều hòa miễn dịch, chất tiêu sừng... sẽ được bác sĩ chuyên khoa kê đơn tùy theo tuổi tác, cơ địa bệnh nhân, vị trí thương tổn, nguyên nhân, mức độ nặng nhẹ, giai đoạn bệnh...

- Vì tính cách đa dạng kèm theo diễn tiến phức tạp của bệnh với nhiều loại thuốc cần phải sử dụng, nhiều phương pháp điều trị cũng như bác sĩ chuyên khoa cần phải được xem bệnh trực tiếp mới có thể có chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh , lời khuyên tốt nhất dành cho bệnh nhân là : nên được bác sĩ chuyên khoa Da Liễu khám bệnh trực tiếp và cho chỉ định điều trị, kèm theo những hướng dẫn chăm sóc vùng da bị tổn thương và phòng ngừa biến chứng, phòng ngừa bệnh tái phát.